Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011

Thủy lôi Mk42-Kẻ Hủy Diệt

Cuốn tài liệu "Những điểm mới trong bom từ trường của Mỹ và một số điểm bổ sung về các biện pháp chống phá-Viện Kỹ Thuật Quân Sự Bộ Tổng Tham Mưu 05/1972 ;14 trang và 4 trang phụ lục" đóng dấu mật và được gửi tận tay Cục Trưởng Cục Vận Tải Đường Biển Lê Văn Kỳ


Kẻ Hủy Diệt là tên một ban nhạc theo phong cách punk rock (rock nặng) được thành lập vào năm 1977 tại Peterborough Anh Quốc trong đó có album Bomb Hanoi !


Bom/thủy lôi Mk40DST Kẻ Hủy Diệt
Trên trang mạng vũ khí của Hải Quân Hoa Kỳ có giới thiệu tổng quan toàn bộ sự phát triển của thủy lôi từ ngày lập quốc cho tới thời kỳ hiện đại,thế kỷ 21.Hình trên là lấy từ trang này ,trong mục Kẻ Hủy Diệt trong chiến tranh Việt Nam ,một loại bom /thủy lôi có thể dùng cả trên mặt đất lẫn ven biển

Hình trên lấy từ trang tpub.com giải thích cấu trúc các loại Kẻ Hủy Diệt ,giúp ta thấy các cấu tạo module của các loại bom trong dòng bom Kẻ Hủy Diệt
Thủy lôi Mk 42 thuộc dòng bom Mk 40 Destructor (viết tắt DST)-Kẻ Hủy Diệt dùng trên đất liền là bom,với ven biển ,sông ngòi là thủy lôi.Loại bom này được chế tạo theo một quan điểm module (modular concept) tức là ghép các bộ phận tiêu chuẩn lại với nhau cho nên dễ chế tạo và biến hóa theo nhiều kiểu tùy theo nhu cầu. Với bom gốc là Mk83 nặng 1000 lbs (454 kgs) lắp thêm bộ điều chỉnh (modification kit ) Mk75 sẽ biến thành dòng bom Mk 40 DST ,dùng được cả trên đất liền và dưới nước ,giống như các họ bom khác là Mk36 và Mk 41,là những loại bom thả từ máy bay .Từ các loại bom thông thường có tên gọi là bom LDGP (Low-Drag General Purpose-có công dụng chung,sức cản thấp) như Mk82,Mk83,Mk 84 được coi như phần thân bom (mine case) và phần thuốc nổ,ta thêm vào bộ phận Mk75 bao gồm bộ phận tháo chốt (arming device) Mk32,bộ phận khuyếch (booster) Mk59,bộ phận điểm hỏa (firing mechanism ) Mk 42 và tất cả các phụ tùng khác,trừ pin accu và bộ phận cánh ,như vậy ta đã biến quả bom LDGP thông thường thành loại bom/thủy lôi thả từ máy bay.Bộ phận điểm nổ Mk 42 yêu cầu phải dùng accu Mk 95.Với bộ kit Mk75 ta có thể biến bom Mk82 (500 pound tức 227 kgs ) thành bom/thủy lôi Mk36 DST,bom Mk 83 (1000 pound tức 454 kgs) thành bom/thủy lôi Mk 40DST,bom Mk84 (2000 pounds hay 908 kgs ) thành bom/thủy lôi Mk 41 DST.Mk36 và Mk 40 DST có thể được ném xuống trong tình trạng lúc giao được làm trễ hay không được làm trễ (retarded or non-retarded mode of delivery).Việc lắp cánh hình côn chỉ áp dụng cho loại không được làm trễ tức là rơi tự do (non-retarded (free-fall) delivery only).Việc lắp cánh Snakeye vào bom cho phép phị công trong khi bay có thể thả DST tùy lựa chọn dưới dạng làm trễ hay không trễ.Bom/thủy lôi Mk41 DST lắp cánh hình côn chỉ có loại không trễ.Trong lịch sử bom mìn của Mỹ,Kẻ Hủy Diệt là loại đầu tiên dùng cả trên bộ lẫn dưới nước.Khi thả trên bộ,no vùi sâu vào đất và sẵng sang hoạt động khi bị kích động bởi các thiết bị quân sự,động cơ xe cộ...Khi thả xuống sông biển ,nó nằm dưới đáy và sẵn sàng nổ khi bị kcíh động bởi tàu thuyền ...Hình dưới là hoạt động của cánh khi được thả,cánh xòe ra


Hình phía dưới là ảnh chụp pin accu Mk 95,do Nguyễn Thái Phong tháo được từ Mk42 chiến lợi phẩm

và nhiều chiến lợi phẩm khác. Theo "Naval Weapon System 1991/1992" , thủy lôi DST có nhiều biến thể khác nhau , đó là các Mod, để chỉ các cơ chế điểm hỏa khác nhau: Mod 3 là từ tính, Mod 4 là từ/địa chấn (magnetic/seismic); còn Mod 5,6,7 là từ /địa chấn kèm theo khả năng KTab . Như đã tiết lộ với Bắc Việt Nam năm 1973, trong Chiến dịch End Sweep, cảm biến sensor từ của DST là một từ kế màng mỏng có độ nhậy chọn lựa ( thin-field magnetometer with selectable sensivity). Còn cảm biến địa chấn (seismic sensor) được mô tả chính thứ như một nguồn điện phát hiện (detection battery). Có lẽ cảm biến đó kích hoạt sensor từ nên thủy lôi không thể nổ chỉ bởi từ trường thuần túy. DST Mk36 được phát triển vào đầu tháng 8 năm 1966, đưa vào sử dụng vào tháng 6 năm 1967. Mod 0 và Mod 1 yêu cầu được giao trễ (retarded delivery); Mod 2 và Mod 3 được giao không trễ chống mục tiêu trên đất liền (delivered unretarded against land target). Mod 0 có bộ trễ điểm hỏa cố định và tự hủy cố định (fixed arming delay and fixed self-destruct) . Mod 1 có (selectable arming delay và introduces a probability actuator) . Mod 2 có selectable self-destruct as well as selectable arming delay and probability actuator , and it is suited to unretarded delivery. Mod 3 adds a sensitivity option for increased countermeasures resistance.
The arming delay al-lows the weapon to become physically stable in the presence of water currents and wave action and hence allows its firing mechanism to become magnetically stable.
Destructor Mk 40 was developed in 1968 for greater damage effectiveness against land targets. Mods 2 and 3 may be dropped unretarded against land targets using conical fins like those of Mk 36 Mods 2 and 3.
The bomb modification kit is Destructor Modification Kit Mk 75. The original program called for 22,125 kits in FY67 and 20,250 for FY68, but in July 1967 the program was increased to 111,865 kits and in November 1967 to 148,998; by 1970, over 300,000 had been made.
Destructors Mks 36 and 40 development ended in FY70, effort switching to Mks 41 and 42 (Quickstrike) following recommendations of the NOL Minetech study, Mine Advisory Committee Nimrod study, and an Op-95 ASW R&D assessment.
There is also a Destructor M117D Mk 59-0 (1985), which uses the standard air force 750-lb bomb, with Arming Device Mk 32-1, battery, and firing mechanism Mk 42-4; the total weight is 857 lb. It is intended for minelaying by B-52s.
Other Destructor Mark numbers were assigned to self-destruction charges. The Destructor designation for these bomb conversions were probably intended as a security cover for what was a secret program during the war.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét